SỰ ĐẶC BIỆT ÍT AI BIẾT TRÊN HOA VĂN GỐM SỨ HÒN CAU ( PHẦN 1)

Câu chuyện về con tàu đắm  tại Hòn Cau trong một lần trên con đường chuyển hàng từ Trung Quốc đến các nước khác theo tuyến đường từ Vũng Tàu. Một thời gian rất lâu về sau, các nhà khai quật đã phát hiện và tiến hành trục vớt và  khai quật con tàu, sau một thời gian gần 2 năm trục vớt, họ đã tìm thấy được rất nhiều những đồ cổ có giá trị cao. Điều đặc biệt nhất ở đây đó là những món đồ gốm Hòn Cau đã nằm dưới đáy biển suốt mấy trăm năm nhưng vẫn giữ được chất lượng của men, những nét trang trí vẫn còn thấy rõ cho thấy sự tiến bộ thịnh vịnh của đồ gốm thời cổ xưa. Ở bài viết này, chúng ta cùng tìm hiểu vì sao những món đồ gốm cổ xưa có thể nằm dưới đáy biển một thời gian quá dài quá lâu tận gần 300 năm như vậy mà có thể vẫn giữ được màu gốm, cũng như họa tiết gốm và men gốm cho đến ngày nay.

Đối với người Trung Hoa, mỗi thời đại có một mô tuýp họa tiết  khác nhau. Hoạ tiết thể hiện quan niệm nghệ thuật của thời đại và tín ngưỡng tôn giáo của người  đương thời. Hay nói cách khác, tâm lý tư tưởng của thời đại chi phối hoạ tiết. Cách diễn tả theo chủ đề, cách vẽ, tô điểm, pha màu, cách thi vị hóa…đều diễn tả tư tưởng phong phú, thâm trầm và đầy chất triết học của người Trung Hoa. Vì vậy, nghiên cứu hoạ tiết trên cổ vật Hòn Cau giúp ta  khám phá ra niên đại của món cổ vật, giúp ta hiểu thêm quan điểm nghệ thuật, kỹ thuật và nhân sinh quan của thời đại đó.

Ảnh 1. Cổ vật được trục với từ con tàu đắm ở Hòn Cau 

Để có được kết luận đây là những cổ vật thời Khang Hy, các nhà chuyên môn đã nghiên cứu các ký hiệu niên đại trên thỏi mục, trên đồng tiền, trên hoạ tiết và nhiều cách khác nữa. Vậy tại sao đồ gố sứ Hòn Cau (1690) lại không ghi niên đại như các hiện vật trước và sau nó. Theo  nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển: “Vua Khang Hy khi về già trở nên khó tính, năm Đinh tỵ (1677) người ra lệnh cấm đề niên hiệu vua dưới đáy từ khí, vì sợ những món sứ bể rơi xuống đất thứ dân phạm tội chà đạp lên thánh hiệu” (Khảo về đồ sứ Trung Hoa, Tr.162). Vì vậy, những đồ sứ sản xuất sau năm 1677 của thời Khang Hy hầu như không thấy ghi niên đại và cổ vật Hòn Cau là một trong những số đó.

Nếu như các hiện vật khác thuộc các thời Vạn Lịch, Ung Chính, Càn Long thường ghi: “Đại Minh Vạn Lịch niên chế” (1573); “Đại Thanh Ung chánh niên chế” (1723), “Càn Long Vạn Lịch niên chế”…thì trên cổ vật Hòn Cau thuộc thời Khang Hy ta thường bắt gặp những dấu hiệu mà các lò sứ quy định để nhìn vào biết sản phẩm của mình, đó là những dấu hiệu như: con dơi, chữ thọ, hai con cá, bút, khánh, hai vòng tròn đồng tâm bên trong có các hình như: lá dâu, nấm linh chi, bình ngọc, miếng chả, khánh, lọng, loa ốc, hoa sen, kiếm, sách…Nhìn chung đó là các dấu hiệu  thể hiện tín ngưỡng tôn giáo của người Hoa đương thời. Trên đồ sứ Hòn Cau ta thường bắt gặp các bát bửu trong tam giáo, cụ thể như sau:

–  Bát bửu của Phật giáo: bánh xe (luân), loa ốc tàn trướng (lọng), hoa sen, bảo bình, song ngư, sơi dây liên hoàn (liên)

Bát bửu của Lão giáo (bát tiên) Cây gậy ăn mày của Lý Thái Quỳ, Cây Phật chủ của Hán Chung Ly, Con lừa giấy của Trương Quả Lão, Giỏ hoa lam của Hàn Tương Tử, Thư quyển ngọc (ngọc quyển) của Tào Quốc Cựu, Ông Tiên của Lữ Đồng Tân, Bảng ngọc của Lam Thái Hòa, Hoa sen của Hà Tiên Cô,hay các ký hiệu: đồng tiền, viên ngọc, miếng chả, sách, khánh, bức họa, sừng tê giác, lá cây (lá ngãi bàng) cũng được xem là bát bửu của Lão giáo.

Sáu dấu hiệu riêng trên đồ sành: Chữ vạn, đỉnh, cổ văn, hoa sen, thỏ ngọc, nấm linh chi. Cổ đồ bát bửu là tám món sau: bửu ngọc, miếng chả, đồng tiền, cuốn thư, cái khánh, chén tê giác, lá bối, bức họa để trong bình quý.

Các dấu hiệu thường được vẽ lên trên đáy sau hiện vật và thường nằm trong hai vòng tròn. mỗi dấu hiệu đều mang một ý nghĩa biểu trưng riêng theo quan niệm đương thời. Nếu các dấu hiệu là một trong những bát bửu của Phật giáo hay Lão giáo thì ta nhận thấy ẩn ý của quan niệm tín ngưỡng, nhưng có nhiều hiện vật mang dấu hiệu khác thể hiện ý nghĩa rất đa dạng của của cuộc sống  như: “nấm linh chi”;dấu “lá dâu”…Nấm linh chi xuất phát từ điển tích: người đời Tống tin rằng linh chi là một dược thảo quý, ăn nhiều sẽ trường thọ. Vẽ linh chi gửi tặng ai nghĩa là chúc người đó sống lâu. Dấu hiệu “lá dâu” là đánh dấu thời kỳ nghề trồng dâu nuôi tằm rất phát triển ở tỉnh Giang Tây, cũng là nơi có nhiều lò gốm sứ rất nổi tiếng như Long Tuyền, Đức Hóa. Nghệ nhân mượn hình ảnh lá dâu đề trên gốm sứ như nhắn nhủ hai đặc sản nổi tiếng của vùng quê mình là nghề làm đố sứ và nghề trồng dâu nuôi tằm. Thật vậy, gốm sứ Giang Tây được xem như là niềm tự hào của người Trung Hoa. Vào thời nhà Thanh, Cảnh Đức Trấn ở Giang Tây được xem là trung tâm của nghề sứ, là nơi có hàng trăm lò gốm sứ, kéo dài đến hàng cây số.

Ảnh 2. Hoa văn trên gốm Hòn Cau


Đến thời điểm bây giờ, những món cổ vât Hòn Cau đã được trưng bày tại các khu trưng bày và được đông đảo các du khách tham quan và ngưỡng mộ. Các nhà nghiên cứu đã đánh giá cao về những món đồ gốm Hòn Cau, đặc biệt là những nét hoa văn trên đó, nó chứng minh cho ta thấy trình độ công nghệ cao lẫn kỹ thuật và mỹ thuật của các nghệ nhân làm gốm ngày xưa.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LÀNG NGHỀ GỐM SỨ TẠI CHU ĐẬU – HẢI DƯƠNG

Nét mộc mạc mà dễ gần ở làng gốm Phù Lãng