NGHỆ THUẬT GỐM VIỆT TRONG LỊCH SỬ
Gốm
sứ là một trong những nét văn hóa truyền thống của Việt Nam gắn bó từ bao đời
nay. Từ xa xưa, dân tộc Việt Nam đã hình thành nghề gốm và làm gốm, nó bắt đầu
từ gốm truyền thống, gốm qua các thời kỳ từ xa xưa lâu đời: thời tiền sử, thời
kỳ đồ đồng, và thời đại đồ sắt. Để có một nét truyền thống vĩ đại của nghề gốm
thời nay, chúng ta phải biết cảm ơn sâu sắc đến những nghệ nhân làm gốm, những
con người cống hiến cả đời mình, bao những nỗ lực tận tâm được truyền từ đời
này sang đời khác để giữ gìn và phát huy nét văn hóa truyền thống mang tính dân
gian sâu sắc này.
Gốm sứ truyền thống từ xa xưa
Gốm cổ truyền Việt Nam đã có cách đây sáu, bảy
ngàn năm. Gốm xuất hiện trong những di chỉ thuộc văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc
Sơn, văn hóa Hạ Long... Rồi ta thấy trong di chỉ thuộc hậu kỳ đồ đá mới Phùng
Nguyên, giai đoạn Đồng Đậu, giai đoạn Gò Mun... Đồ gốm cổ truyền nước ta đã có
những bước phát triển cao và hết sức phong phú.
Trong truyền thuyết, sự xuất hiện của đồ gốm, đồ
sứ như một điều bí hiểm, linh thiêng “Đồ gốm, sứ là loại chất bột nằm sâu trong
lòng đất, ở những nơi linh thiêng có ma quỷ canh giữ. Muốn khai thác được phải
chọn ngày lành tháng tốt. Lên tới mặt đất, nhờ ánh sáng chói lọi của mặt trời
soi dọi chất bột đó mới biến thành gốm, sứ...”
Thực ra đó chỉ là truyền thuyết ly kỳ để tăng cái phần quan trọng
của kỹ nghệ gốm, sứ xa xưa. Thực chất hàng gốm, sứ ra đời nhờ đôi bàn tay khéo
léo và đầu óc sáng tạo của người thợ thủ công. Lịch sử Việt Nam, tập 1,
trang 38 có ghi: “Trong giai đoạn Phùng Nguyên, kỹ thuật tạo chế đồ đá đã đạt
đến trình độ cực thịnh. Những chiếc rìu, vồ đục... quy mô to nhỏ khác nhau,
được chế tạo bằng cách mài, cưa khoan, rất hoàn thiện. Những vòng tay, hoa tai,
hạt chuỗi... bằng đá được chau chuốt, tiện, gọt tinh vi. Những loại hình đồ gốm
(nồi, bát, cốc, vò...) có hình dáng đẹp, chắc, khoẻ, phần nhiều đã được chế tạo
từ bàn tay. Mặt ngoài đồ gốm phủ đầy hoa văn trang trí với những đường vạch sắc
sảo, những nét cong uyển chuyển, mềm mại, được phối trí, đối xứng và hài hòa.
Đó là một biểu hiện về óc thẩm mỹ khá cao của người Việt Nam lúc bấy giờ....”
Vậy là kỹ nghệ gốm giai đoạn Phùng Nguyên (cách
ta gần 4.000 năm) ở nước ta đã phát triển mạnh. Con người buổi đó đã biết nghĩ
ra bàn xoay và chế tạo ra thứ men để phủ ngoài, tăng thêm vẻ dẹp kỳ diệu của đồ
gốm.
Đây là một thời kỳ của nước Văn Lang. Cho tới
thời Âu Lạc, kỹ nghệ gốm đã phát triển mạnh lắm. Nghề nung gạch, làm ngói...
cũng đã có từ ngày này.
Phải nói thời cực thịnh của gốm sứ là thời kỳ Lý
- Trần (thế kỷ XI - XIV). Đó là những năm đất nước phồn thịnh, kinh tế mạnh mẽ,
quân sự vững mạnh, văn hóa phát triển, đất nước an bình, mọi kỹ nghệ được
khuyến khích phát đạt.
Nghề gốm, xem ra phát triển rải rác khắp đất
nước. Ở tỉnh nào cũng có những vùng làm nghề gốm. Cứ ven các dòng sông, chúng
ta gặp nhiều mảnh sành, mảnh gốm còn vương sót lại. Hoặc chúng ta gặp những dãy
lò gốm đang ăn khói nghi ngút. Những trung tâm sứ gốm ở nước ta, xuất hiện từ
thời Lý - Trần mà đến nay vẫn còn hưng thịnh nghề nghiệp, đó là Bát Tràng (Hà
Nội), Thổ Hà, Phù Lãng (Bắc Ninh), Hương Canh (Vĩnh Phúc), Quế Quyển (Hà Nam
Ninh), Chum Thanh (Thanh Hóa)... Mỗi vùng quê gốm lại giữ kỹ nghệ riêng biệt.
Và mỗi nơi, lại có mặt hàng gốm đặc trưng riêng của mình, tạo thêm cái đa dạng
và phong phú của công nghệ gốm Việt Nam. Nếu nói trung tâm gốm ở nước ta, phải
nói tới Bát Tràng - Thổ Hà – Hương Canh. Một đặc điểm riêng biệt và rõ nét nhất
của nghề gốm là đều phát triển dọc sát các triền sông. Bởi lẽ nó tiện đường
chuyên chở, và đất sét dọc các triền sông là thứ nguyên liệu quý để sản xuất
gốm, sứ.
Gốm thời tiền sử: những sản phẩm đất nung được phát hiện cho thấy ở giai đoạn đầu
thường thô có pha lẫn cát hoặc các tạp chất khác, được nặn bằng tay, hoa văn
đơn giản ở phía ngoài như các vạch chéo, vân sóng, vân chải răng lược... Các
hoa văn này được tạo ra khi sản phẩm còn ướt, một số được tạo bằng bàn dập hoặc
dùng que nhọn để vẽ, vạch.
Các nhà chuyên môn cho rằng trong suốt thời gian dài, từ lúc phát minh ra đồ gốm tới đầu thời kỳ đồ đồng, phần lớn gốm được hình thành bởi bàn tay của phụ nữ (vân tay để lại trên sản phẩm cho thấy điều đó); được nung ngoài trời, nhiệt độ thường dưới 700ºC. Các sản phẩm gốm thời kỳ này là đồ đựng, đồ đun nấu, về cuối ta thấy xuất hiện thêm các loại đồ dùng để ăn uống, trang sức.
Thời kỳ đồ đồng: ở Việt Nam (cách đây 4 nghìn năm), hầu hết các sản phẩm gốm được hình thành bằng bàn xoay một cách khá thành thạo, do vậy tạo nên sự phong phú về chủng loại và kiểu dáng sản phẩm: ngoài các sản phẩm đun nấu còn thấy những sản phẩm gốm để chứa đựng, dụng cụ ăn uống, trang sức, công cụ lao động và gốm mỹ thuật. Về trang trí, gốm đất nung chủ yếu có các hoa văn hình hoạ, nét chìm là chính. Một số sản phẩm được xoa một lớp áo bằng nước đất khác màu nhưng chưa phải men. Các hoa văn trang trí và cách tạo dáng của gốm giai đoạn này có ảnh hưởng đến tạo dáng và trang trí trên đồ đồng cùng thời.
Các nhà chuyên môn cho rằng trong suốt thời gian dài, từ lúc phát minh ra đồ gốm tới đầu thời kỳ đồ đồng, phần lớn gốm được hình thành bởi bàn tay của phụ nữ (vân tay để lại trên sản phẩm cho thấy điều đó); được nung ngoài trời, nhiệt độ thường dưới 700ºC. Các sản phẩm gốm thời kỳ này là đồ đựng, đồ đun nấu, về cuối ta thấy xuất hiện thêm các loại đồ dùng để ăn uống, trang sức.
Thời kỳ đồ đồng: ở Việt Nam (cách đây 4 nghìn năm), hầu hết các sản phẩm gốm được hình thành bằng bàn xoay một cách khá thành thạo, do vậy tạo nên sự phong phú về chủng loại và kiểu dáng sản phẩm: ngoài các sản phẩm đun nấu còn thấy những sản phẩm gốm để chứa đựng, dụng cụ ăn uống, trang sức, công cụ lao động và gốm mỹ thuật. Về trang trí, gốm đất nung chủ yếu có các hoa văn hình hoạ, nét chìm là chính. Một số sản phẩm được xoa một lớp áo bằng nước đất khác màu nhưng chưa phải men. Các hoa văn trang trí và cách tạo dáng của gốm giai đoạn này có ảnh hưởng đến tạo dáng và trang trí trên đồ đồng cùng thời.
Thời đại đồ sắt: gốm đất nung được sản xuất hầu như khắp các vùng trong nước. Chất lượng gốm còn non lửa và vẫn thô sơ nhưng về tạo dáng và trang trí thì chưa có thời kỳ nào đặc sắc và phong phú bằng. Hiện vật thời kỳ này cho thấy nghề gốm vẫn gắn bó với nghề nông nhưng nam giới đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất.
Đến thế kỷ 2 trước Công nguyên Việt Nam bị rơi vào ách thống trị của phong kiến phương Bắc. Nghề gốm tiếp tục phát triển trên vốn kinh nghiệm cổ truyền, có tiếp thu ảnh hưởng của gốm Trung Hoa. Về chủng loại sản phẩm, xuất hiện thêm loại gốm kiến trúc như gạch, ngói. Ngoài ra còn có các tượng động vật nhỏ như lợn, bò với kiểu nặn sơ sài. Phong cách gốm thời kỳ này mang phong cách Hán hoặc kết hợp hoa văn Việt và hoa văn Hán. Nhiều sản phẩm gốm Hán khác được cải biên theo phong cách Việt.
Từ những nghiên cứu về gốm Việt Nam ở các thời kỳ lịch sử lâu
đời này cho chúng ta thấy được sự lịch sử nghề gốm đã hình thành từ lâu và dấn
phát triển theo hướng truyền thống riêng biệt, từ lúc chưa có sự phát triển kỹ
thuật tiên tiến, những nghệ nhân xưa chỉ sử dụng các dụng cụ thô sơ để tạo nên
những đồ gốm phục vụ cho cuộc sống con người hằng ngày là chính. Và gốm đã cùng
phát triển song song với quá trình phát triển của lịch sử đất nước ta cho đến
bây giờ.
Nhận xét
Đăng nhận xét