Nhìn lại vài nét đáng quý tại gốm Thổ Hà

Theo các trưởng lão làng, vào thế kỷ XI - XII, ba người Việt Nam được phái đến Trung Quốc làm sứ đồ của nhà vua và họ đã học được nghệ thuật gốm của Trung Quốc. Họ là Hủ Vinh Kiều từ thôn Bố Bát, tỉnh Thanh Hoá, Đào Trí Tiến, phía bắc tỉnh Hưng Yên.

Sau khi trở về Việt Nam, ba người đã dạy đồ gốm trong các làng của họ. Ông Kiều dạy người Bố Bát làm gốm bằng đất sét trắng. Làng sau đó di chuyển gần Hà Nội, và bây giờ được gọi là Bát Tràng. Tương tự, ông Tú trở về Phú Lãng; Và ông Tiến đến Thổ Hà, giảng dạy dân làng sản xuất gốm với đất sét đỏ, vàng và sẫm màu.

Vào thời điểm đó, Thổ Hà là trung tâm kinh tế về gốm sứ, có lò sưởi, thương nhân, và kinh doanh gốm sứ. Những ngày này, những người trẻ tuổi chỉ biết về sự nổi tiếng của Thổ Hà qua những bức tường, mái nhà và những ngôi nhà được làm bằng gạch vỡ. Ngày nay, không có lò nung ở Thổ Hà.

Ảnh 1. Cổng làng gốm Thổ Hà - Bắc Ninh 


Làng gốm Thổ Hà thuộc vùng Kinh Bắc, nằm ven dòng sông Cầu. Con sông từ thuở nào đã đi vào lời ca “nước chảy lơ thơ...”. Giữa một vùng đồng bằng trù phú, nơi nhiều nghề phụ, xứ sở của quan họ, làn khói những lò gốm đã bay khoan thai tự bao đời.

Trong Kinh Bắc phong thổ ký diễn quốc sự thời Lê có viết:
Mã Đông Hồ gấm thêu hoa quyện
Cày làng Lê dựng nghiệp nông gia
Chĩnh chum thời có Thổ Hà

Theo sử sách thì gốm Thổ Hà, gốm Bát Tràng, gốm Phù Lãng đã có từ thời Lý. Làng gốm Thổ Hà xưa ở núi Gốm (Quế Dương) rồi cứ tiến dọc triền sông. Qua Vạn Yên qua làng Đặng, làng Chọi, Quả Cảm... cho đến cuối đời Trần mới dừng lại Thổ Hà giờ đây.

Dấu vết trên đường rời quê ấy, dọc triền sông, nay người ta còn đào được nhiều mảnh sành mảnh sứ. Hẳn thời nguyên sơ, con sông Cầu còn vật vã dữ dội. Những làng xóm thuở ấy còn nhỏ bé. Cuộc sống con người còn gian nan. Thiên nhiên đầy khắc nghiệt. Để có sự bình yên như bây giờ, phải biết bao công sức của con người.

Tôi đi trong làng Thổ Hà đã bao lần, mà mỗi lần cứ nao nao xúc cảm. Những ngõ hẻm chạy dài sâu, hai bên bờ tường cao xây bằng tiểu, bằng vại nèn đất làm ngõ càng hẹp, càng hun hút hơn. Lối ngõ lát toàn mảnh sành, mảnh gốm vỡ. Một tiếng cười ở đầu ngõ cũng cứ âm vang. Mái ngói kề mái ngói ngả màu rêu. Những dãy lò đang ăn lửa. Vài chiếc lò con cóc bỏ không. Một khoảng trời xanh đất chợt ở cuối ngõ... Sự phồn thịnh ấy, tất cả đều do bàn tay con người.

Cụ Vọng, nghệ nhân xuất sắc của làng gốm nói với tôi về cái nghề gốm của làng cụ: “Đất và bàn tay mình thôi. Bao đời rồi chúng tôi nặn nồi bát ven sông...”. Phải! Thật kỳ lạ khi xem những mặt hàng gốm mà nơi đây làm ra. Từ cái vại mộc, đến cái thống men trồng hoa..., tất cả đều nặn từ đất. Người Việt mình gắn bó với bao đồ gốm, đồ sành. Từ khi ra đời cắt nhau cho vào cái nồi đất chôn ngoài cổng ngõ, rồi tắm lọt lòng trong cái chậu sành da lươn, lớn lên cầm bát cơm, cái điếu bát hút thuốc lào, cái nồi kho cá, cái vại muối cà, cái chum kê bên gốc cau hứng nước mưa... Rồi đến khi nhắm mắt nằm xuống, thay đổi hài cốt, người lại được nằm trong cái tiểu sành. Đất với người, người với đất gắn bó, thuỷ chung như thế.

Thổ Hà xưa nay không có một thửa ruộng nào. Mọi công việc đều quay quanh mấy chục cái lò gốm. Xưa toàn xây kiểu lò con cóc... chưa có lò rồng nhiều bầu như giờ. Lò rải khắp làng như những con cóc cụ ngồi chồm hỗm. Những cột khói bốc lên nghi ngút khắp làng. Nhà giàu, có nhà hai lò. Nhà nghèo chung nhau mấy nhà một lò. Nghèo nữa thì đi làm mộc, đi gánh gồng thuê. Công việc vất vả nhất là khâu làm mộc. “Hòn đất mà vật lên nồi”. Bàn tay người làm nên cả thôi. Nào quây, vần, chuốt. Đất sét sau nhiều lần đảo trộn, cầm lên tay dẻo dai như cơm nếp. Không phải đất nào cũng làm gốm được. Cuộc di quê dọc sông Cầu xưa, chắc là cũng vì một phần theo nguyên liệu đất chăng? Thổ Hà có từng đoàn thuyền đi lấy đất. Có khi đi xa ngót hai mươi cây số tận Xuân Cai, Đồng Trũng mua đất về Người trong nghề quen rồi. Cứ nhìn sắc đất biết là mẻ gốm đẹp hay thường. Hòn đất cầm vê trên tay cứ mịn, dẻo là được mua với giá cao. Nay làm ăn có tập thể, đất tìm được ngay đồng gần làng không phải đi xa nữa. Lại có dự án cứ đào sâu dưới lòng sông Cầu, sét nhiều mà tốt lắm. Làng gốm thỏa sức mà làm... 

Tôi cứ mê đi trước cảnh từng dãy nhà, các bác, các chị ngồi chân đạp bàn xoay, tay chuốt hình. Nào lọ, nào vò, nào chum, nào vại cứ hiện dần lên dưới tay người. Dưới đôi bàn tay ấy là cuộc sống bừng dậy. Ngày trước người làm gốm chỉ làm bộ, không biết rót khuôn như bây giờ. Ấy thế mà, con mắt và bàn tay thần kỳ làm sao, bao hình dáng cân đối và đều nhau như thế. Nay trong làng còn nhiều gia đình giữ lại được một số đồ cũ. Những chum, ang cao ngập đầu người. Những chiếc chậu cảnh nuôi cá rộng như cái nia. Những họa tiết, những đường riềm trên những đồ vật ấy cứ sống động, trẻ mãi. Từ khối đất sét dẻo quánh kia, người dựng hình lên thế nào. Bao đời, bàn tay con người mới kỳ diệu làm sao...

Cụ Vọng nói: “Là nghề của chúng tôi, mọi cái rồi quen cả thôi. Thật ra thì cũng khó khăn đấy. Khi làm mộc khô, đưa vào lò, hàng to thế, phải bốn năm người khênh, mà chỉ cần không đều tay một tí là vỡ, là âm ngay. Lại còn cho lửa ăn nữa. Nếu lửa già quá thì hàng bị nứt nẻ. Ăn non lửa, hàng lại rộp lên như bánh đa quạt than...”.

Ngày trước trong làng chỉ có vài người biết đun lò. Những sư lò được trọng đãi lắm. Lò này gọi, lò kia gọi. Ngày đun lò là ngày nôn nóng hơn. Từng đống cỏ tranh khô cứ vơi dần. Khi nhìn qua cửa lò, chum vại đỏ rực lên như sắp cháy. Ấy là hạ lửa. Chờ vài ngày sau lửa tắt, lò nguội dần là ra lò. Vui nhất là ngày ra lò. Lò này ra, lò kia ra. Trong nhà, ngoài ngõ tất bật hẳn lên. Thuyền đỗ đầy ngoài bến chờ ăn hàng. Những chiếc chum to hai người, bốn người đòn chão khênh. Chum nhỏ một người ôm một. Có người đội lên đầu, cứ thế lênh khênh mà đi. Tiếng cười oang oang đầu ngõ. Trẻ con cũng xúm vào làm theo. Đứa xách cái vò, đứa xách cái lọ chạy luýnh quýnh. Sân chứa hàng một lúc đã đầy cả lên nào chum, nào chĩnh, nào vại, nào chậu, nào nồi. Trời ơi, nhìn những mặt hàng ăn lửa chín đều, cứ xăn xắn, gõ vào thành nghe canh canh tiếng chuông lòng ai mà yên được. Cái niềm vui rân rân dâng lên như rượu mạnh... Làng gốm ở đây cứ liên tiếp những niềm vui như thế. Sau những mùa gốm, làng xóm lại thêm bao nếp nhà ngói. Cái ngõ lát mảnh sành, mảnh sứ cài răng lược lại kéo dài thêm ra...
 
 Ảnh 2. Những hình ảnh gốm tại làng Thổ Hà
Anh cán bộ kỹ thuật Dong đang say mê nghiên cứu cách pha chế  men sao cho đẹp, vừa rẻ, lại vừa có sắc riêng của Thổ Hà. Trong phòng làm việc của anh đầy những vò, lọ, chậu, cốc đựng hóa chất. Học xong khoa gốm Trường Mỹ thuật Công nghiệp, anh xin về công tác ở đây. Buổi đầu tiên, sau khi đi thăm các bác, các anh thợ gốm làm việc, là anh đi vẽ bức tranh bột màu về cái cổng làng Thổ Hà. Bức tranh hiện nay anh vẫn giữ, phần là kỷ niệm, phần là ghi nhận ngày về với quê hương thứ hai của mình. Được biết anh vừa pha chế thành công một số mẫu men mới. Anh say sưa nói với chúng tôi về men nặng lửa, men nhẹ lửa. Và thật kỳ lạ, đồ làm bằng đất, lại lấy từ đất ấy làm men tráng lên, sau khi nung, hàng được tráng lớp men bóng và đẹp lạ. Anh đang băn khoăn làm sao tạo được nhiều mặt hàng đẹp, vừa mới, vừa giữ được đường nét dân tộc. Điều băn khoăn lớn của ngành thủ công là làm sao kế truyền được những tinh hoa của cha ông trước kia, kẻo mai một đi.

Làng gốm Thổ Hà, ngành nung nay đã có từng tổ nung. Những sư lò nay là những nghệ nhân già, là những thanh niên mới lớn lên. Và đặc biệt có cả con gái nữa. Câu chuyện của những sư lò mới dùng củi thay cỏ, dùng than thay củi thật vui, thật cảm động. Lớp thợ mới lớn lên trên đất quê mình. Với tinh hoa của cha ông, với trái tim mình, bàn tay người thợ gốm Thổ Hà ngày càng khéo hơn.

Người Thổ Hà giàu thời vàng đồ gốm, trong thế kỷ 15 và 16, và giờ đây họ trở nên giàu có nhờ nghề thủ công khác.

Thổ Hà còn được biết đến như là quê hương của nhiều hậu duệ của các chúa Trịnh (Trinh chúa 1545-1787 là một loạt các nhà cai trị của Việt Nam kiểm soát quyền lực của chính quyền trong khi vẫn để lại một vị vua) trong thời kỳ chiến tranh giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam (giữa chúa Trịnh ở phía bắc và chúa Nguyễn ở phía Nam).

Ngôi làng cũng là nơi trú ẩn cho nhiều hậu duệ của chúa Trịnh khi cuộc nổi dậy Tây Sơn tiến về phía bắc. Các di tích của chúa Trịnh vẫn được bảo tồn tại đình xã Thổ Hà, ví dụ như một cặp vẹt (động vật tượng trưng của chúa Trịnh) hoặc một cô gái vuốt ve râu rồng (coi như trinh chúa Trịnh trêu chọc Le Kings) khắc trong nhà.

Tại thôn Thổ Hà, Trịnh là một trong hai gia đình lớn nhất.

Ông Trịnh Đắc Cường, 86 tuổi, một cựu thợ thủ công gốm sứ nói rằng người Thổ Hà là người khéo léo và giỏi trong kinh doanh. Mặc dù họ không thành công trong các nghiên cứu, nhưng nó không quan trọng bởi vì người dân luôn có cuộc sống tốt đẹp.





Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LÀNG NGHỀ GỐM SỨ TẠI CHU ĐẬU – HẢI DƯƠNG

SỰ ĐẶC BIỆT ÍT AI BIẾT TRÊN HOA VĂN GỐM SỨ HÒN CAU ( PHẦN 1)

Nét mộc mạc mà dễ gần ở làng gốm Phù Lãng