SỰ KẾT HỢP HÀI HÒA ĐÃ TẠO RA NÉT ĐẶC TRƯNG CHO GỐM BIÊN HÒA ( PHẦN 1)

Rất ít người biết rằng sản phẩm gốm sứ ở Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nổi tiếng cả trong và ngoài nước từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Đến nay, các loại sản phẩm gốm ở Biên Hòa trong thời kỳ đó vẫn là những thứ rất quý giá và hiếm có đối với những ai quan tâm đến việc sưu tầm đồ gốm cổ.

Có lẽ bởi vì sự may mắn là khu vực gốm Biên Hòa có một sự hòa hợp giữa nhiều dân tộc Việt Nam với nhau nên rồi cuối cùng những cái khác nhau lại hòa quyện chung thành một nét đặc sắc chung, chính vì thế nghệ thuật làm gốm Biên Hòa mang một nét trang trí vô cùng đặc biệt, lạ lùng, đầy tính nghệ thuật đặc sắc. Ngày nay, nghề gốm nơi đây này chỉ được thực hiện tại phường Bửu Long và Tân Vân ở xã Tân Hiệp và Hòa An, nơi có khoảng 400 xưởng sản xuất nhỏ và lớn của gia đình.

Miền Đông Nam bộ được biết đến như một vùng đất mới khai hoang của các chúa Nguyễn. Năm 1679, Trần Thượng Xuyên được phép của triều đình cho định cư tại Biên Hòa, cùng người Việt di cư từ Đàng Ngoài vào lập nên Nông Nại Đại Phố. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược ở phương Nam đã chính thức lập bản đồ địa chính cho khu vực. Sự chính thức hành chính hóa của chúa Nguyễn đã công nhận một vùng đất có những đặc trưng văn hóa riêng trong nền văn hóa Việt Nam.

Ảnh 1. các sản phẩm trang trí độc đáo của gốm Biên Hòa

Dù lịch sử định cư, di trú của các tộc người ở miền Đông Nam bộ có khác nhau nhưng nguồn gốc xã hội của họ vẫn mang những điểm tương đồng: là những người nghèo cùng nhau khẩn hoang nhọc nhằn, đương đầu với thiên nhiên hoang dã, có chung nền văn hóa nông nghiệp, cùng một số phận lịch sử. Tuy có những đặc điểm tộc người riêng biệt, văn hóa, tôn giáo khác nhau nhưng do cộng cư lâu ngày trên một địa bàn chung, họ đã ít nhiều thích nghi, ảnh hưởng văn hóa của nhau và quá trình giao tiếp văn hóa ấy đã tạo nên những yếu tố văn hóa tương đối đồng nhất, mặc dù mỗi dân tộc đều giữ bản sắc văn hóa của riêng mình. Qua sự thích nghi của người dân đối với môi trường địa lý cảnh quan và ảnh hưởng văn hóa lẫn nhau đã thể hiện những đặc trưng tâm lý, văn hóa tộc người, hình thành nét đặc trưng của vùng văn hóa miền Đông Nam bộ.

Đông Nam bộ vào TK XVII là nơi hội tụ của nhiều nền văn hóa với đa dạng tộc người khác nhau. Thứ nhất là người Việt di cư từ miền Trung vào khai hoang, mang theo văn hóa và ngành nghề truyền thống đến. Chính họ đã thực sự là chủ thể của những sáng tác mang tính đặc trưng vùng miền cho gốm Đông Nam bộ. Thứ hai là người Minh Hương, từ Phúc Kiến, Quảng Đông (Trung Quốc) chạy trốn khỏi nhà Thanh qua Việt Nam, được Chúa Nguyễn cho định cư tại Nam bộ. Họ đưa đến những kỹ thuật và phong cách sáng tác gốm của quê hương phương Bắc. Thứ ba chính là những tộc ít người với văn hóa bản địa.

Trong một xã hội văn hóa pha trộn ấy, cả người Việt và người Hoa đều có những kỹ thuật làm gốm riêng của họ như làm đồ đất nung của người miền Trung, làm gốm có men của người Minh Hương… Tuy nhiên, sự giao thoa về văn hóa của những con người cùng sống trên một mảnh đất đã thúc đẩy nghề gốm phát triển với một nghệ thuật trang trí rất đặc trưng, mang trong mình đầy đủ thế giới quan, nhân sinh quan của xã hội thu nhỏ đó.

Trải qua thăng trầm của lịch sử, dấu ấn đời sống, văn hóa của từng thời đại đã được in hằn trên bề mặt sản phẩm gốm. Khi con người đã biết dùng nghệ thuật là công cụ để truyền tải những tâm tư tình cảm của mình, khi kỹ thuật đã cho phép họ được rộng mở hơn trong thể hiện các ý tưởng sáng tạo thì những đặc điểm của dân tộc, truyền thống cộng đồng càng trở thành yếu tố quan trọng của từng dòng sản phẩm. Nghề làm gốm thật đúng với câu: “Tất thảy những gì người ta biết hoặc làm theo truyền thống, tức là bằng một sự lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ nọ, nhờ ở lời nói hay làm mẫu”.

Cù Lao Phố là nơi dừng chân đầu tiên của Nguyễn Hữu Cảnh, cũng là thị cảng sầm uất vào bậc nhất phía nam ngày trước. Nơi đây đã sản sinh ra những làng gốm bên sông Đồng Nai. Trong bộ sưu tập gốm lòng sông Đồng Nai, có nhiều loại hình thuộc gốm Việt, Hoa, Chăm, niên đại tương đương với sự phát triển của Cù Lao Phố. Song những dấu tích gốm còn sót lại ở Rạch Lò Gốm (Cù Lao Phố), qua nhiều đợt nghiên cứu, điều tra, khảo sát của các nhà khảo cổ học, cho thấy có nhiều cứ liệu nhất về truyền thống gốm Đại Việt (Trung bộ) và gốm Việt gốc Hoa đã được sản xuất nơi đây. Khảo sát của Trần Anh Dũng và  Hà Văn Cẩn (Viện Khảo cổ học Việt Nam) năm 2001 đã tìm thấy dấu vết nền lò nung gốm của người Việt cùng những sản phẩm gốm nguyên vẹn như ghè đứng, bình vôi và cả mảnh bao nung sành. Chúng hoàn toàn tương ứng với kiểu lò và sản phẩm của một số khu lò gốm ở miền Trung, có niên đại ở TK XVII- XVIII. Như vậy, bộ sưu tập gốm lòng sông Đồng Nai cho thấy những người thợ gốm miền Trung đến lập nghiệp và sản xuất gốm tại Cù Lao Phố đã từ rất lâu.

Ảnh 2. Trang trí và tạo hình gốm Biên Hòa 

Sự kết hợp của các dòng gốm quy tụ trên một vùng đã dần dần hòa nhập vào nhau, tạo thành một tổng thể phong cách, mà có lẽ chưa thấy vùng gốm nào của Việt Nam có được sự hội nhập một cách khá thuận lợi và gần như trọn vẹn như thế. Các yếu tố nghệ thuật chế tác, nghệ thuật tạo hình và trang trí sản phẩm, kỹ thuật và phong cách thể hiện, chất liệu…, đã làm nên tính đặc trưng của một dòng gốm nổi tiếng. Có rất nhiều yếu tố tạo ra những nét đặc biệt cho gốm Biên Hòa như kỹ thuật lập men và sơn men và nung. Công thức cho men rượu quyết định màu sắc của sản phẩm và nhiều trong số đó là bí mật được bảo vệ chặt chẽ của mỗi gia đình. Cách để gắn men vào sản phẩm cũng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất gốm. Các sản phẩm sẽ biến dạng trong khi nung nếu các thợ thủ công không thực hiện tốt kỹ thuật này. Một khi các sản phẩm được tráng men, chúng được đưa đến lò nung để nung.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LÀNG NGHỀ GỐM SỨ TẠI CHU ĐẬU – HẢI DƯƠNG

SỰ ĐẶC BIỆT ÍT AI BIẾT TRÊN HOA VĂN GỐM SỨ HÒN CAU ( PHẦN 1)

Nét mộc mạc mà dễ gần ở làng gốm Phù Lãng