Đặc trưng nổi bậc của đồ gốm thời kỳ Lê - Nguyễn ( phần 2)
Lịch sử của gốm sứ Việt Nam có thể được truy nguồn từ 10.000
năm, đến nền văn hoá Tân Tạo Tân Bình. Tuy nhiên, những bằng chứng chắc chắn nhất
đã được tìm thấy tại các địa điểm Đá Bút và Quỳnh Văn đến năm 5.000 trước Công
nguyên. Các mảnh gốm có mô hình hình học tinh vi đã được phát hiện từ nhiều nơi
khác nhau của nền văn hoá Phùng Nguyên (1.800 TCN). Điều này rất có ý nghĩa khi
nhiều mẫu vải Phùng Nguyên được trình bày trên trống đồng trống Đông Sơn sớm nhất
và trang trí tinh tế nhất (500 TCN - 40 AD), cho thấy một truyền thống nghệ thuật
liên tục của Việt Nam cũng như sự đóng góp tích cực của các thợ làm đồ đồng
Công nghệ.
Vào thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, nhiều trống đồng
của Việt Nam đã bị phá hủy hoặc bị chôn vùi. Tuy nhiên, đồ gốm Việt Nam phát
triển theo hình dạng Trung Quốc nhưng với phong cách Đông Sơn.
Cũng rất thú vị là một chiếc bình bằng ngà với ngà bằng ngà
với một quả trứng hình quả đào, bốn cái đầu voi trên đầu vai, một lớp sơn màu
xanh đậm với những đồ trang trí Tám Triagrams của Huỳnh Tạng và các mẫu âm
dương trên cơ thể của Fu Hsi.
Những ví dụ này rất thú vị bởi vì chúng nằm trong số ít các
trang của Bát Tràng được tích hợp các họa tiết Việt Nam và Trung Quốc.
Những đồ án hoa
văn phong phú sinh động được tạo nên bằng phương pháp vẽ bút lông, khi phóng
khi công bằng màu lam khi loãng khi đặc, khi dày khi mỏng làm cho hoa lam, có độ
đậm nhạt lung linh. Gốm hoa lam là đỉnh cao của nghệ thuật trang trí gốm nước
ta. Bút lông thú mềm mại, bụng to mũi nhọn, có thể tạo nên những nét lớn hoặc mảnh
theo tay ấn, nên thao tác cực kỳ phong phú như sổ, gạch, chấm, phẩy, hất, ngoặc,
kéo từ dưới lên, từ trái sang phải hoặc ngược lại làm cho những đồ án hoa văn
trở nên mềm mại, sống động. Những nét phóng bút rành mạch nhưng vẫn uyển chuyển
bay bướm.
Các mô típ, đồ án, đề tài hoa văn trang trí trên gốm hoa lam
cũng có nhiều cái mới khác trước. Trên những đồ thường dùng hàng ngày như bát,
bình, đĩa, ấm, nậm rượu,v.v. trang trí chủ yếu vẫn là hoa lá, chim chóc, ngựa,
cá tôm, v.v.Còn trên đồ thờ cúng như chân đèn, lư hương chủ yếu trang trí hình
long ly quy phượng, nghê, v.v.
Hoa lá trang trí
phổ biến trên gốm hoa lam là sen và cúc. Sen và cúc ở đây thường được tạo thành
những đường diềm cành nối cành, lá xoắn lại giống như dây bầu dây bí, thường được
gọi là hoa cúc dây, sen dây, gần với hình mây lửa. Hoa sen trang trí ở phần cuối
thân thường thể hiện từng cánh hoa tách rời nhau xếp quanh thân thành băng,
trong mỗi cánh trang trí văn sóng nước.
Chim thường thấy là
phượng và chim khách. Nếu như trước đây trên gốm hoa nâu, chim thường được thể
hiện trong tư thế đi, thì trên gốm hoa lam thường là chim bay. Bằng bút lông, với
những nét phóng bút, người thợ gốm đã vẽ nên được những hình chim bay thật sinh
động, duyên dáng, nhẹ nhàng.
Hình tôm cá thường
được thể hiện ở tư thế động, chúng bơi lượn bên những chùm rong mềm mại, hay nhảy
vọt lên trên những đợt sóng nhấp nhô. Ngựa thường là đang phi nước đại được thể
hiện ở những tư thế khác nhau rất có khí thế.
Rồng và nghê là
những con vật tượng trưng được thể hiện như có thực trong cuộc sống. Rồng mang
phong cách của rồng thời Lê – Mạc, thân khỏe, lưng hình yên ngựa, đầu có sừng,
bờm tua tủa, chân nhiều móng sắc được thể hiện ở nhiều tư thế khác nhau, có khi
nằm dài ra như bay trên tầng mây, có khi vừa uốn khúc vừa cuộn tròn lại như rồng
ấp,v.v.
Đôi bình gốm trang trí gốm Bát Tràng xưa |
Mây là một mô típ
trang trí khá phổ biến trên gốm hoa lam. Mây thường được thể hiện thành nmhững
mũi vun vút bay kiểu ngọn lửa nên được gọi là mây lửa.
Các mô típ hoa văn trên được thể hiện theo lối
phóng bút bay bướm, nhưng bao giờ cũng được bố cục chặt chẽ, các mảng đậm nhạt
khác nhau của hoa văn phát triển theo một nhịp điệu nhịp nhàng uyển chuyển.
Trên một sản phẩm
hoa văn thường trang trí thành những băng ngang theo bố cục truyền thống của
nghệ thuật trang trí đồ gốm nước ta. Trong đó có một băng chính không những rộng
hơn mà về độ phức tạp, kích thước lẫn mật độ hoa văn đều nổi bật hơn các băng
diềm.
Còn trên đĩa, diện
trang trí là mặt phẳng và tròn. Hoa văn thường được trang trí dàn trãi lên toàn
mặt bằng, có chủ đề rõ ràng khiến cho ta có cảm giác như đó là một bức tranh
hoàn chỉnh.
Cùng với sự phong
phú và đổi mớí của hoa văn, kiểu dáng đồ gốm hoa lam cũng có những đặc điểm
riêng khác trước. Dễ nhận thấy hơn cả là xu hướng vươn lên theo chiều cao, hình
dáng thanh thoát, bớt thô hơn trước. Xu hướng vươn lên theo chiều cao không những
thể hiện trên những chiếc chân đèn cao lênh khênh, lư hương, nậm rượu, mà còn
thấy cả trong những chiếc bát, đĩa chân đế cao. Và bát chân cao trở thành hiện
vật tiêu biểu cho gốm hoa lam thế kỷ 15 nước ta.
Buổi đầu gốm hoa
lam sản xuất chủ yếu là đồ thường dùng hàng ngày như bát, đĩa, bình, lọ, ấm, liễn,
nậm rượu,v.v. đều được tạo dáng thanh thoát, thành mỏng, thường có miệng lỏ, bụng
tròn, chân đế cao, quai và vòi nhỏ nhắn, có sự hài hòa giữa hình khối và đường
nét.
Dưới triều đại Lý và Trần, khi nền độc lập của Việt Nam được
củng cố, đã có những truyền thống tách biệt. Gốm sứ Ly-Trần nâu được sản xuất bằng
kỹ thuật, hình dáng và thiết kế trang trí của người Việt Nam. Nhiều họa tiết từng
chạm vào trống đồng Đông Sơn được thể hiện kết hợp với các yếu tố mượn và biến
đổi từ các nền văn hoá lân cận.
Từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17, gốm Việt Nam tham gia vào thương
mại hàng hải quốc tế. Rất nhiều đồ sứ xanh và trắng Việt Nam, bao gồm các kiệt
tác như bình Topkari nổi tiếng đã được xuất khẩu sang nhiều nước ở Đông Nam Á
và Trung Đông. Đặc biệt, dưới triều Lê Thanh Tông (1460-1497), cả nước và sản
xuất gốm đều có thời kỳ vàng son. Không phải ngẫu nhiên mà trong những năm cuối
của thế kỷ 16, ông Đặng Huyền Thông, một thợ gốm từ trung tâm gốm sứ trắng và
trắng Nam Sạch đã chế tạo một số cây hương ở dạng trống đồng Đông Sơn và các mô
hình hình học Đông Sơn.
Nhận xét
Đăng nhận xét